Thư Gửi Toàn Dòng
Của Cha Tổng Quyền Bruno Cadore, O.P.
Chủ đề năm nay là
“Người giáo dân Đa Minh với việc giảng thuyết”. Năm nay được bắt đầu liền
ngay sau Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđíctô khai mạc tại Thượng hội đồng
về Tân Phúc Âm hóa và truyền giảng đức tin, để kỷ niệm ngày khai mạc công
đồng Vatican II, và khép lại với việc Đức Thánh Cha Phanxicô công bố Tông
huấn Niềm vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium).
Dòng Anh Em Giảng Thuyết
Trụ Sở Trung Ương Dòng
Roma ngày 22/12/2013
NGƯỜI GIÁO DÂN ĐA MINH VỚI VIỆC GIẢNG THUYẾT
Đề tài học hỏi năm 2014
trong giai đoạn chín năm chuẩn bị mừng Năm Thánh của Dòng
“Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm.
Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ,
người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.” (Ge 3,1)
Anh chị em thân mến,
Tôi hết sức vui
mừng khi viết lá thư này – vào đúng ngày kỷ niệm Dòng được châu phê – để khai
mạc một năm trong giai đoạn chín năm hướng đến Năm Thánh của Dòng. Chủ đề năm
nay là “Người giáo dân Đa Minh với việc giảng thuyết”. Năm nay được bắt đầu
liền ngay sau Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđíctô khai mạc tại Thượng hội
đồng về Tân Phúc Âm hóa và truyền giảng đức tin, để kỷ niệm ngày khai mạc
công đồng Vatican II, và khép lại với việc Đức Thánh Cha Phanxicô công bố
Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium).
Vì vậy, chúng ta
phải lưu tâm đến người giáo dân Đa Minh, trong bối cảnh Dòng Thuyết Giáo nhận
được rất nhiều tiếng kêu mời phải canh tân nhiệt tình rao giảng Tin Mừng. Quả
vậy, Tổng hội gần đây của anh em đã chọn chủ đề cho Năm Thánh là “Được sai đi
loan báo Tin Mừng”, một chủ đề vừa đơn sơ nhưng cũng rất căn bản. Việc chọn
chủ đề như thế nhắc lại việc các anh em tiên khởi được sai đi giảng thuyết để
phục vụ Giáo hội, hoàn toàn dấn thân cho việc loan truyền Lời Chúa.
Khẩu hiệu Năm
Thánh thật đơn sơ, nhắc chúng ta lưu ý đến trọng tâm của sứ vụ mà Giáo hội
mong muốn nơi Dòng: đó là loan báo Tin Mừng. Khẩu hiệu này cũng mang ý nghĩa
căn bản, bởi vì, vượt trên tất cả những khó khăn mà chúng ta có thể gặp phải,
vượt trên tất cả những bấp bênh của sứ vụ hay của đời sống, nó luôn nhắc
chúng ta nhớ rằng trước hết và trên hết chúng ta phải sẵn sàng để được “sai
đi”, vì như thế là chúng ta sống đúng căn tính của mình. Ngày nay, có lẽ hơn lúc
nào hết, chủ đề về người giáo dân Đa Minh phải giúp chúng ta nhận rõ hơn rằng
tất cả chúng ta, là thành viên gia đình Đa Minh, đều được sai đi cùng nhau để
cổ vũ cuộc đối thoại của Thiên Chúa với thế giới qua việc rao giảng Tin Mừng
bình an.
Một “Cộng đồng
Đa Minh” được sai đi rao giảng Tin Mừng
Hẳn nhiên, đã có nhiều thay đổi so với thuở ban đầu của
Dòng. Chẳng hạn, Giáo hội đã suy tư về việc giảng thuyết. Giáo hội cũng suy
tư về người giáo dân và vai trò thiết yếu của họ trong vấn đề làm chứng và loan
báo Tin Mừng, Công đồng Vatican II là một thời điểm đặc biệt quan trọng đối
với những suy tư đó. Cũng thế, suy tư trên được thực hiện và được hỗ trợ bởi
những kinh nghiệm cụ thể của người giáo dân, xét vì họ là thành phần toàn vẹn
của các Hội Dòng, của các cộng đoàn mới cũng như của các truyền thống linh
đạo. Tất cả những điều đó có một điểm chung là xác tín đã được Đức Thánh Cha
Phaolô VI nhấn mạnh trong Công đồng chung Vatican II, đó là: Giáo hội chỉ trở
thành chính mình cách đích thực tuỳ theo mức độ biến chính mình thành một
cuộc đối thoại trong thế giới. Điều đó có nghĩa là qua việc rao giảng Tin
Mừng cho thế giới, Giáo hội mong muốn làm chứng rằng, qua Đức Giêsu, Thiên
Chúa của mạc khải Kinh Thánh đến gặp gỡ con người để đối thoại với họ.
Cách đây khá
lâu, tôi có dịp may được tham dự sinh hoạt của một giáo xứ ở Haiti,vào lúc mà
người ta tổ chức những cộng đoàn Giáo hội nhỏ bé, gọi là các “Huynh Đoàn”.
Sau này, tại một số giáo xứ khác, hình thức đó được gọi là “Ti Legliz” (Giáo
hội nhỏ). Cả hai cách gọi đó nhắc cho chúng ta một điều rất đơn giản là vào
những thế kỷ đầu tiên, “Huynh đoàn” là tên gọi được dùng để chỉ các cộng đoàn
trong Giáo hội. Huynh đoàn, nơi đan xen giữa việc chia sẻ đức tin và hình
thành cuộc sống nhân sinh của mỗi cá nhân, cũng chính là lò tôi luyện giúp
cho việc làm chứng và truyền giáo. Như thế, huynh đoàn được coi như ấn dấu
trên bản khai sinh của Giáo hội.
Rõ ràng là tình
hình hiện nay đã khác với thuở ban đầu của Dòng, tuy vậy, chúng ta cũng dễ
dàng nhận thấy một số điểm tương đồng khiến chúng ta nhớ lại những gì đã đốt
lên ngọn lửa nơi đức giám mục Diego và cha thánh Đa Minh: đó là có những xáo
trộn về lối sống trong Giáo hội, do những biến đổi trong xã hội phong kiến,
sự xuất hiện những kiến thức mới cũng như những cách thức mới để đạt được
những kiến thức đó, những thay đổi tận căn trong cơ cấu tổ chức của xã hội và
các thành phố. Ngay trọng tâm của những thay đổi này, xuất hiện những nhóm
giáo dân mời gọi Giáo hội chuyển động, dám mạo hiểm ra khỏi những cơ cấu vốn
quá ổn định và cứng nhắc đến độ bóp nghẹtngọn gió đang thổi đến. Những con
người “nghèo” và “hèn mọn” này chọn lựa cuộc sống liên kết với sự hiện diện
khiêm tốn trong thế giới, với một lời sống động vàđích thực được rao giảng
như một tin vui, và với một lối sống khá quyết liệt. Họ được thúc đẩy bởi
trực giác này là, một lối sống quyết liệt trong trọn vẹn con người vì Tin
Mừng, là cách tốt nhất để “diễn giải” Lời và bày tỏ sự hiện diện của Đấng đã
đến cứu độ thế giới. Trong số các nhóm giáo dân đó, một số được chính Đức
giáo hoàng Innôcentê III cho phép đi giảng lưu động và hành khất. Những hội
“Dòng Ba” khất thực có thể được xem cách nào đó như là những người thừa kế
của các phong trào này, mà chúng ta phải phân biệt rõ ràng khỏi các sáng kiến
về đời sống tu trì.
Từ chính bối cảnh Giáo hội sôi nổi tìm cách tái khám phá
bản chất đích thực của mình, mà phát sinh nhóm “Giảng Thuyết Thánh tại
Prouilhe”, và một số giáo dân đã gia nhập vào cuộc phiêu lưu còn mới mẻ của
thánh Đa Minh. Đọc lại thời gian sơ khai này, tôi không thể không nghĩ rằng,
khi thánh Đa Minh đón nhận những người nữ hoán cải đầu tiên muốn đặt mình
dưới sự bảo trợ của ngài, tiếp đến là bà Ermengarde Godoline và chồng là
Sanche Gasc (8/8/1207), thì cha Đa Minh đã bắt đầu mơ về một lối sống theo
mẫu gương cộng đoàn được thánh sử Luca đề cập trong Tin Mừng của ngài, cộng
đoàn đi theo Đức Giêsu, “qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo
Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 8,1-3). Đoạn văn ngắn của Tin Mừng Luca mô tả
Đức Giêsu, nhà giảng thuyết, là trọng tâm của trình thuật từ đoạn 7 đến đoạn
10, trong ý nghĩa đó, chúng ta có thể vui mừng bởi vì, đến lượt mình, chúng
ta cũng “được sai đi để rao giảng Tin Mừng” theo cung cách của huynh đoàn.
Tiếp nối nhóm “giảng thuyết thánh”, chúng ta được sai đi như một gia đình để
rao giảng Tin Mừng. Như thế, khái niệm “Gia đình Đa Minh” không phải chỉ là
một cách nói để diễn tả việc qui tụ những nhóm có chung một mục đích giống
nhau, nhưng nó còn diễn tả một cách thức loan báo Tin Mừng và, từ lối nhìn
này, người giáo dân Đa Minh là một lời nhắc nhở về một đòi hỏi bắt nguồn từ
trong Tin Mừng.
Sự thống nhất
của Dòng chúng ta thực sự có được nhờ sứ vụ rao giảng Tin Mừng: giáo dân, nữ
tu và anh em trong Dòng là những thành viên của cùng một gia đình với căn
tính chung là tất cả đều được sai đi rao giảng Tin Mừng qua việc làm chứng
cho một Thiên Chúa đang đến đối thoại với con người. Hay đúng hơn, chúng ta
có thể nói rằng căn tính “Đa Minh” trước hết là một gia đình – một “cộng đoàn
hiệp thông” được thiết lập bởi mối liên hệ chặt chẽ giữa việc rao giảng Tin
Mừng và suy niệm chân lý; Chân lý này là Lời sống động đã đi vào thế giới, mà
chúng ta cố gắng trình bày qua ba dạng thức là cầu nguyện, học hỏi và huynh
đệ, mỗi khía cạnh được cụ thể hóa cách riêng biệt tuỳ theo lối sống của mỗi
anh chị em. Đoạn Tin Mừng của thánh Luca được trích dẫn ở trên cho thấy việc
sai nhóm Mười Hai, rồi đến nhóm bảy mươi hai môn đệ đã được gắn liền với việc
Đức Giêsu mạc khải chính mình như Lời đến trần gian để hoàn tất lời hứa và
trao ban sự sống, Lời mà chúng ta phải lắng nghe và đem ra thực hành, chính
Lời này đang quy tụ anh chị em lại với nhau. Khi giới thiệu các anh em giảng
thuyết, đức Hônôriô mô tả họ là những người hoàn toàn hiến thân cho việc rao
giảng Lời Chúa. Chính sự dấn thân cho Lời, qua việc rao giảng và chiêm niệm
(“xin hãy thánh hóa họ trong chân lý: Lời ngài là chân lý”, Ga 17,17) làm cho
chúng ta nên một. Trong viễn cảnh ấy, chiều kích hiệp nhất của gia đình Đa
Minh là điều thiết yếu bởi vì nó được liên kết với sứ vụ loan báo Vương Quốc
(trong Tin Mừng Gioan, phần tiếp theo lời Chúa Con cầu nguyện với Chúa Cha,rõ
ràng nhắc đến việc sai đi đến với thế giới và việc cầu xin cho họ được nên
một [Ga 17,18-23]).
Hẳn nhiên, Dòng
Anh Em Giảng Thuyết không chiếm độc quyền giảng thuyết hay loan báo Tin Mừng
trong Giáo hội, nhưng tôi nghĩ rằng khi Giáo hội “châu phê” Dòng cách đây gần
800 năm, thì cũng chỉ thị cho Dòng, như Dòng “giảng thuyết thánh”, phải phục
vụ đặc sủng giảng thuyết của Hội thánh,tức là phục vụ chiều kích cốt yếu đó
của Hội thánh. Chính vì chiều kích giảng thuyết này mà Hội thánh được hình
thành và được thiết lập nhờ ân sủng từ Thánh Thần của Đức Kitô. Việc phục vụ
này không phải chỉ bằng hình thức giảng thuyết hay loan báo Tin Mừng, nhưng
hơn thế nữa, còn do việc là gia đình này được xây dựng trên sự hiệp nhất qua
việc giảng thuyết, do đó nó là một lời nhắc nhở giữa lòng Giáo hội rằng việc
rao giảng Tin Mừng góp phần hình thành nên Giáo hội Huynh đệ và hiệp thông.
Đối thoại và
hiệp thông
Dưới ánh sáng của ba điều vừa được nhắc tới – một là Giáo
hội huynh đệ, hai là giai đoạn đầu của Dòng như nhóm giảng thuyết thánh, và
ba là sự hiệp nhất của gia đình Đa Minh – tôi mời gọi anh chị em suy nghĩ về
chủ đề cho năm nay: “Người giáo dân Đa Minh với việc giảng thuyết”, và lấy đó
làm chủ đề gợi ý suy tư cho chúng ta. Những điều đã nói trên sẽ giúp chúng ta
nhận ra rằng chủ đề này mở ra những chân trời khá rộng, hầu có thể hiểu rõ
hơn sự dấn thân của người giáo dân trong Gia đình Đa Minh cần thiết ra sao
đối với sứ vụ giảng thuyết của Dòng.
“Người giáo dân,
với ơn gọi của mình, tìm kiếm nước Thiên Chúa qua việc tham gia vào những
công việc trần thế và bằng cách sắp đặt thế giới theo kế hoạch của Thiên
Chúa. Họ sống trong môi trường trần thế, nghĩa là đảm nhận những bổn phận và
công việc khác nhau của thế giới. Họ sống trong những hoàn cảnh đời thường
của gia đình và xã hội, có thể nói cuộc sống của họ được đan dệt bằng những
sinh hoạt trần thế. Ở đó, họ được Thiên Chúa mời gọi làm việc để thánh hóa
thế giới ngay từ bên trong, như men cho đời, qua việc đảm nhận trách vụ của
họ dưới sự hướng dẫn của tinh thần Tin Mừng” (GH 31). Trong cái nhìn tổng
quát đó, kiểu nói “người giáo dân Đa Minh” giúp ta lưu tâm đến một sự khác
biệt nào đó của những con người, nam cũng như nữ, ngày hôm nay đang muốn, nhờ
ân sủng của Bí tích Thánh tẩy, tham gia vào sứ vụ của chúa Kitô, đó là theo
gương cha thánh Đa Minh, “làm cho sự hiện diện của Đức Kitô giữa lòng nhân
loại trở nên sống động” (Luật Sống1968, Lời ngỏ). Là người giáo dân, họ đều
được “mời gọi làm cho sự hiện diện của đức Kitô được lan toả giữa lòng thế
giới, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được mọi người nhận biết và đón nhận”
(Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 3). Và tất cả đều được mời gọi thực hiện điều
đó bằng cách đóng góp vào việc thiết lập “gia đình” Đa Minh, một gia đình
được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Là giáo dân Đa
Minh, “khi trung thành với ơn gọi, họ nỗ lực để mình được thấm nhuần tinh
thần của thánh Đa Minh: nhờ chuyên cần chiêm ngắm Thiên Chúa, cùng với việc
cầu nguyện và học hỏi, họ kín múc được một đức tin vững chắc; mỗi người tùy
theo ân huệ và điều kiện sống của mình, sẽ làm chứng niềm tin của mình cách
mạnh mẽ, ngõ hầu soi sáng cho người tín hữu cùng chung một niềm tin với họ,và
cả những người chưa được đón nhận ánh sáng Chúa Kitô. Vì thế, nhờ họ, Dòng có
thể đạt tới mục đích của mình một cách đầy đủ hơn. Người giáo dân Đa Minh cố
gắng nhận ra và chia sẻ những nỗi khổ đau, âu lo và khát vọng của con người.
Được ánh sáng Tin Mừng hướng dẫn theo tinh thần Giáo hội, cùng với tất cả
những người thiện chí, qua việc phục vụ chân lý, họ cổ võ tất cả những gì là
chân thực, công bình và thánh thiện, và họ sẽ ra sức trợ giúp tất cả mọi
người, bao nhiêu có thể, trong tinh thần vui tươi và tự do chân thành” (Luật
sống 1968, Lời ngỏ).
Trong số những
người giáo dân Đa Minh, chắc chắn các thành viên Huynh đoàn giáo dân Đa Minh
có một vị trí quan trọng, vì như là thành viên của Dòng, họ lựa chọn dấn thân
suốt đời bằng lời hứa đóng góp theo cách riêng biệt của họ vào sứ vụ của Đức
Kitô. Như vậy, họ nối kết việc dấn thân của mình với Lời hằng sống, không chỉ
bằng cuộc sống của một người đã được rửa tội, nhưng còn bằng cách sống hài
hoà cam kết của họ với cuộc sống mà họ muốn biến thành lời “rao giảng”, phục
vụ cho cuộc đối thoại của Thiên Chúa với nhân loại. Đồng thời, họ nối kết
việc giảng Lời Chúa vào trong đời sống của Dòng, khi không ngừng qui chiếu
việc giảng thuyết này với thể chế của Giáo hội Chúa Kitô, qua việc tìm kiếm
sự hiệp thông và hiệp nhất. Như anh chị em đã biết, ngày nay chúng ta phải suy
nghĩ về sự phong phú trong các Huynh đoàn, cùng nhau tìm hiểu xem làm thế nào
chúng ta thực hiện tốt hơn việc đón nhận, thúc đẩy và nối kết sự đa dạng ấy,
một sự đa dạng nhưng quy tụ nơi một chứng từ cụ thể chung, chứng từ bằng đời
sống của người giáo dân muốn thi hành sứ vụ giảng thuyết.
Người giáo dân cũng có thể chọn những cách thế khác để
tham gia vào sứ vụ trên và thuộc về “Gia đình Đa Minh” mà không cần tham gia
hình thức huynh đoàn: chẳng hạn nhiều Hội dòng nữ Đa Minh có các hội đoàn
giáo dân liên kết với họ, một số tu viện hay hoạt động đặc thù của anh chị em
Đa Minh cũng có những hội như thế; tham gia Phong trào Giới Trẻ Đa Minh thế
giới; Tình nguyện viên Đa Minh; tham gia các Huynh đoàn của cha Lataste và
những phong trào được ngài lập theo tinh thần Bêtania. Mỗi nhóm này đều có
cách thức dấn thân riêng của mình vào gia đình Đa Minh.
Và, cũng như các
gia đình, chúng ta cũng có những bạn hữu, mặc dù không bày tỏ rõ ràng sự gắn
bó, nhưng cùng chia sẻ một sứ vụ, qua việc cộng tác theo nghề nghiệp của họ,
nhằm liên đới chặt chẽ với tinh thần của thánh Đa Minh (ví dụ, dạy học, xuất
bản, truyền thông), hay những chọn lựa loan báo Tin Mừng (chẳng hạn nhiều
giáo dân dấn thân cho việc rao giảng Kinh Mân Côi theo truyền thống Đa Minh).
Ý tưởng về gia đình Đa Minh, về sự hiệp thông Đa Minh, cho phép chúng ta nối
kết các chiều kích đó lại, cùng với nữ đan sĩ, nam tu sĩ, nữ tu hoạt động,
huynh đoàn giáo dân cũng như huynh đoàn linh mục, nhân danh việc rao giảng
Tin Mừng, là sứ vụ chung phục vụ Nước Trời, trong sự tôn trọng và tính độc
lập của mỗi ơn gọi riêng. (xc. Tài liệu Bolonia)
Sự phong phú đó
rất quan trọng để làm sáng tỏ mối dây liên đới giữa người giáo dân Đa Minh
với việc giảng thuyết. Phải nhấn mạnh ngay rằng hạn từ “giảng thuyết” được sử
dụng với nghĩa rộng nhất, và vẫn phải tôn trọng bản chất riêng của việc giảng
trong phụng vụ như kỷ luật Giáo hội quy định. “Con trai con gái các ngươi sẽ
trở thành ngôn sứ” ! Rao giảng Lời Chúa, loan báo Nước Thiên Chúa, công bố
Tin Mừng, giảng Tin Mừng bình an, làm lan toả sự hiện diện của Đức Kitô… Tất
cả những kiểu diễn tả đó vọng lại lời của ngôn sứ Giôen: mọi người sẽ là ngôn
sứ, mọi người sẽ lên tiếng “nhân danh Đức Chúa”. Những kiểu nói của Công đồng
Vatican II cho thấy rõ ràng bản chất riêng của ơn gọi giáo dân là truyền
giáo. Chính trong ý nghĩa đó mà chúng ta đặt mối dây liên hệ giữa người giáo
dân Đa Minh với sứ vụ giảng thuyết của Dòng. Đặc trưng này mang hai ý nghĩa.
Một mặt do môi trường riêng của người giáo dân, nơi đó người giáo dân Đa Minh
sống và làm chứng, và cũng nơi đó, qua việc phục vụ Tin Mừng, họ giúp cho
Dòng hoàn thành sứ mạng của mình, tức là “đạt đến mục đích cách đầy đủ hơn”.
Mặt khác, do những gì họ đóng góp cho Dòng và cho sự hiệp thông Đa Minh, và
đó cũng là một cách thức bổ túc khác để góp phần hoàn tất sứ mạng của Dòng.
Chính những người phụ nữ trở lại khiến thánh Đa Minh ý thức việc cần thiết
phải bảo vệ họ. Và chính những người nghèo ở Vôđoa đã cho thấy rõ ràng cách
sống triệt để có sức làm chứng cho Tin Mừng như thế nào.
Theo tôi, người
giáo dân Đa Minh có thể giúp cho việc giảng thuyết của Dòng đạt đến cùng đích
cách trọn vẹn hơn bằng chính cuộc sống của người giáo dân, điều đó được thực
hiện bằng nhiều cách thế khác nhau. Cũng giống như các nam nữ tu sĩ của Dòng,
việc giảng thuyết của người giáo dân Đa Minh được đâm rễ từ ngay trong kinh
nghiệm sống của họ. Bởi đó, sự phong phú do những đóng góp riêng biệt của
người giáo dân Đa Minh cho việc giảng thuyết của Dòng đến từ kinh nghiệm của
đời sống gia đình và nghề nghiệp, kinh nghiệm về tình phụ tử, kinh nghiệm về
đời sống trong Giáo hội, kinh nghiệm của một người trẻ trong xã hội đương
thời, kinh nghiệm riêng của một người đã được rửa tội phải làm chứng về niềm
tin của mình trong gia đình hay trong nhóm bạn hữu hàng ngày họ tiếp xúc quen
biết, cả những người không chia sẻ cùng một niềm tin, thậm chí đôi khi không
tỏ ra thiện chí muốn chia sẻ… Hơn nữa, họ cảm nhận được những khó khăn trong
việc làm chứng đức tin theo một cách thức riêng : tại nhiều nơi trong thế
giới hiện nay, hoàn cảnh sống thường nhật của giáo dân khiến họ phải đối diện
với sự thờ ơ, chủ nghĩa hoài nghi và vô tín, rất khác so với trường hợp của
các tu sĩ, và điều đó phải làm giàu cho việc giảng thuyết của toàn Dòng. Cũng
vậy, qua cuộc sống gia đình, sự nghiệp và chính trị, người giáo dân hiểu được
rằng đối với người Kitô hữu, những đòi hỏi phải sống tình huynh đệ và chân
lý, vốn hướng dẫn họ góp sức làm thay đổi thế giới, một hình thức rao giảng
được kết nối một cách căn bản với bậc sống của họ, thì cũng phù hợp với việc
giảng thuyết chung của toàn “gia đình giảng thuyết”
Qua tất cả những kinh nghiệm này mà
người ta có thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa, về sự hiện hữu của Người, Lời
của Người và sự Quan Phòng của Người… Nói nhân danh Thiên Chúa, là để cho Thiên
Chúa gợi hứng cho lời nhân loại của ta, sao cho những lời đó làm chứng cho sự
hiện diện và cho “sự sống ở với chúng ta” của Đấng vĩ đại hơn tất cả chúng
ta. Nhưng cũng là để lặp lại nơi chúng ta, nơi tận cùng kinh nghiệm của chúng
ta, kinh nghiệm huyền bí mà chính Thiên Chúa, nơi Con của Người, đã muốn có
từ thân phận loài người.
Người ta dễ hiểu
rằng sự bổ túc cho nhau giữa việc giảng thuyết của những người giáo dân và
việc giảng thuyết của các nam nữ tu sĩ sống đời thánh hiến trong gia đình Đa
Minh, là kết quả của sự bổ túc giữa các kinh nghiệm của đời sống con người.
Từ quan điểm này, cần nhấn mạnh rằng một trong những trách nhiệm của gia đình
Đa Minh là phải tổ chức sao cho những kinh nghiệm phong phú đó – dĩ nhiên
không phải chỉ là những công việc truyền giáo cụ thể - được đối thoại với
nhau, và dạy cho nhau về sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Tôi thấy
rằng, thường chúng ta xem là hiển nhiên việc chúng ta đang cùng nhau lưu tâm
đến tính cách đặc thù của kinh nghiệm người Đa Minh ngày nay trong các bậc
sống khác nhau, rằng chúng ta cũng hiểu biết cách sống của những thành viên
khác trong gia đình Đa Minh… cuối cùng chúng ta thường cho rằng có thể xây
dựng “gia đình” của chúng ta mà không nói gì đến chính nền tảng của việc
giảng thuyết, trong khi đó chính là nền tảng của ân sủng nơi mỗi người. Để
phục vụ cho cuộc đối thoại của Thiên Chúa với nhân loại, chúng ta phải dành
thời gian, và phương tiện, để lắng nghe được những tiếng vang vọng từ rất
nhiều cuộc đối thoại mà Thiên Chúa đang thực hiện trong trần gian này.
Khởi đi từ chính
những nhận xét ấy, chúng ta có thể nói rằng người Giáo dân Đa Minh đang làm
phong phú cho cách thức mà qua đó Dòng phải học mỗi ngày, đó là “yêu mến thế
giới”, một thế giới mà chúng ta được sai đến để rao giảng, không phải chỉ
bằng những phân tích khôn khéo và chí lý về thế giới, mà còn dám để cho mình
chịu thương tích do những kinh nghiệm phong phú về thế giới, mà các thành
viên gia đình Đa Minh đang sống. Hơn nữa, khi sống như thế, Dòng trong sự
phong phú của mình, cũng học cách để cho chính mình được ghi dấu bởi những
cách diễn tả khác nhau của Lời, nẩy sinh từ những kinh nghiệm đó. “Một tay
cầm Kinh Thánh, còn tay kia cầm tờ báo” là câu nói được ưa thích của một số
cha anh chúng ta. Kinh nghiệm được chia sẻ sẽ làm giàu cho thái độ này. Và
chính khởi đi từ cách hiểu như thế về Dòng trong toàn thể tính của mình, có
thể càng ngày càng tăng cường xác tín rằng một trong những bổn phận của việc
rao giảng Tin Mừng là cho phép mỗi người thấy được chỗ đứng của họ trong
Vương Quốc mà chúng ta loan báo, để họ nhận ra trách nhiệm của mình, và đến
lượt họ, cũng chấp nhận để được sai đi. Trong Dòng, người giáo dân Đa Minh có
nhiệm vụ nhắc nhở những thành viên khác về sự thật hiển nhiên hàng đầu này:
đó là trong Giáo hội, người giáo dân không phải chỉ là những người đón nhận
việc giảng dạy, đón nhận việc loan báo Tin Mừng và những chăm sóc mục vụ,
nhưng đúng hơn họ được mời gọi để trở nên những thành viên tích cực cho những
hoạt động đó.
Canh tân nhiệt
tâm loan báo Tin Mừng trong tình hiệp thông
Gần đây, Giáo hội nói tới khái niệm “gia
đình thiêng liêng”, đặc biệt để chỉ những cộng đoàn thường được gọi là “những
cộng đoàn mới”. Theo một khía cạnh nào đó, giả như chúng ta chấp nhận một sự
sai trệch về thời gian, ta có thể nói rằng “cộng đoàn giảng thuyết thánh”
thời ban đầu của Dòng có lẽ đã đáp ứng được định nghĩa này, và rằng ngày nay
khái niệm “Gia đình Đa Minh” đang thực hiện ý nghĩa đó.
Ngày nay, một
thông điệp được lặp đi lặp lại và càng ngày càng được nhắc tới, đó là Giáo
hội phải cấp bách canh tân nhiệt tâm truyền giảng Tin Mừng, có nghĩa là Giáo
hội vừa phải củng cố chính mình, vừa phải trải rộng ra, nhờ sức mạnh và ân
sủng của việc rao giảng Tin Mừng. Để đạt được điều đó, phải cấp bách ý thức
rằng việc loan báo Tin Mừng không thể được xem như là hoa trái của riêng hàng
giáo sỹ trong Giáo hội, nhưng đúng hơn, đó là hoa trái của một sáng kiến
chung, nhờ đó toàn thể Giáo hội thực hiện được điểm cốt yếu của mình, là lao
mình chạy đến gặp gỡ những con người thời đại. Như thế, để sống đúng bản chất
của mình, Giáo hội cần đến sự dấn thân của mọi thành phần trong việc loan báo
Tin Mừng cho thế giới. Làm sao chúng ta lại không nghe được sứ điệp khẩn
thiết này đối với Dòng chúng ta? Là “người phục vụ đặc sủng giảng thuyết”,
Dòng Anh Em Thuyết Giáo có trách nhiệm cổ võ đặc sủng giảng thuyết của người
giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng, và chỉ ra rằng việc hội nhập người
giáo dân Đa Minh vào mối hiệp thông chung của gia đình Đa Minh, điều đó cũng
nằm trong chính việc xây dựng Giáo hội. Nhưng lúc đó, trong Dòng cũng như có
thể cả trong Giáo hội, chúng ta cần phải cấp bách nhìn nhận rằng các ý nghĩa
của việc loan báo Tin Mừng sẽ không thể được xác định nếu thiếu đi một cuộc
đối thoại thực sự giữa anh chị em chúng ta, giáo dân, giáo sỹ và tu sỹ, trong
khi lưu tâm đặc biệt đến kinh nghiệm và nỗi khao khát truyền giáo của người
giáo dân.
Nhiều yếu tố xem
ra có tính quyết định khi nhận định về những đóng góp riêng của người giáo
dân Đa Minh vào việc canh tân nhiệt tâm loan báo Tin Mừng trong toàn thể gia
đình Đa Minh. Trước hết, với nguy cơ công bố điều tầm thường, người giáo dân
nhắc nhở chúng ta rằng trực giác Tin Mừng của thánh Đa Minh không thể bị giản
lược vào lối sống của người tu sĩ. Trong một gia đình thiêng liêng, luôn hiện
diện một mối nguy là phân biệt kỳ thị dẫn đến phân chia giai cấp một cách
hoàn toàn sai lầm: thánh hiến hay không thánh hiến; linh mục hoặc không linh
mục; nam và nữ; trẻ với già. Trong chúng ta, phải có sự đơn sơ và can đảm để
đối diện với cám dỗ này, và sửa chữa lại cho đúng đắn. Chính bằng cái giá như
thế mà chúng ta mới có thể đưa đặc sủng giảng thuyết lên đến mức độ cao nhất
để phục vụ cho một Giáo hội huynh đệ. Lắng nghe người giáo dân Đa Minh nói về
niềm vui cũng như những khó khăn mà họ gặp phải khi dấn thân phục vụ Giáo
hội, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, nếu những sự trợ giúp của người giáo dân
thường là được hoan hô nhiệt liệt, thì những sáng kiến của họ, việc đào tạo
thần học cho họ, những kiến thức lý thuyết và thực tiễn của họ không phải lúc
nào cũng được đón nhận một cách đúng đắn. Chúng ta làm như có hai trọng
lượng, hai thước đo đối với vị trí được dành cho lời nói của mỗi người trong
cuộc đối thoại của Giáo hội.
Nhấn mạnh đến sự dấn thân của người giáo
dân Đa Minh trong việc giảng thuyết, điều đó có nghĩa là, theo truyền thống
Dòng, chúng ta đã nhấn mạnh đến việc học hỏi. Thực ra, như đã nói lúc đầu,
việc giảng thuyết phải thực bắt nguồn từ sự cân bằng giữa ba hình thức chiêm
niệm là cầu nguyện, học tập và đời sống huynh đệ. Loan báo Lời, lắng nghe nỗi
khát vọng của thế giới hiện tại đang muốn tìm kiếm chân lý, nỗ lực thiết lập
những điều kiện tốt nhất cho cuộc đối thoại với các nền văn hóa cũng như
những tri thức mới: tất cả những điều đó đòi hỏi phải khổ chế trong việc học
hành. Dòng mãi mãi là “người môn sinh”, hầu cho nhờ việc học hành mà những
chứng từ và những lời phát biểu về đức tin tìm gặp được những kiến thức của
truyền thống Giáo hội, gặp được tính nghiêm túc và tính khách quan nhờ đó mở
ra cho những người đối thoại với chúng ta một nẻo đường chân thật của tự do,
từ đó phát triển chính sự hiểu biết của họ về đức tin trong Giáo hội.
Sự phong phú của
những hoàn cảnh cụ thể mà người giáo dân đang sống cũng là nguồn lực dồi dào
cho toàn thể Gia đình Đa Minh. Thực sự, nó giúp chúng ta tránh khỏi tính dễ
dãi như khi người ta trình bày các thực tại của con người, cá nhân, gia đình
và xã hội cách hàm hồ, nó cũng giúp tránh tính “lý thuyết”, thứ lý thuyết vốn
có nguy cơ trở thành mẫu mực và giản lược. Chính trong kinh nghiệm cụ thể làm
phát sinh những vấn nạn về đời sống lứa đôi, nuôi dạy con cái, trách nhiệm
nghề nghiệp, công ăn việc làm bấp bênh, mức sống kinh tế, việc dấn thân chính
trị và xã hội. Cũng chính trong kinh nghiệm cụ thể mà người ta cảm nghiệm
được thế nào là sự ra đi của người bạn đời hay con cái, những khoảnh khắc khó
khăn khi phải chuyển hướng nghề nghiệp, giai đoạn chuẩn bị về hưu, những khó
khăn của tuổi già. Tất cả những kinh nghiệm trong cuộc sống cụ thể như thế
đều có liên hệ đến việc dấn thân của họ trong việc rao giảng Tin Mừng, người
giáo dân Đa Minh mang lại một sự đóng góp vô cùng lớn lao cho việc hiểu Lời
Chúa ngay trong gia đình Đa Minh.
Việc Giáo hội
nhấn mạnh đến tính cấp thiết phải canh tân nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng
thường phát xuất từ sự kiện “tục hóa”, tình trạng này cho thấy việc rao giảng
Nước Trời là một thách đố lớn lao. Ở đây một lần nữa, cần phải nhấn mạnh đến
tính đặc thù của những kinh nghiệm mà người giáo dân có được về sự tục hóa
trong môi trường nghề nghiệp, bạn bè và gia đình của họ. Đôi khi chúng ta
nghe anh chị em giáo dân than phiền vì thấy gia đình của họ lạnh nhạt với đức
tin, nỗi cô đơn của họ khi dường như họ không thể công khai tuyên xưng đức
tin trong môi trường sống và làm việc, những sự khó hiểu mà họ phải đối diện
khi cố chứng tỏ rằng không nhất thiết có sự đối nghịch giữa lý lẽ hiện đại,
mà trên hết là khoa học kỹ thuật, với những xác quyết về niềm tin và các giá
trị. Đôi khi, có anh chị em nói đến những khó khăn ngay trong bối cảnh đa văn
hóa, là họ không tìm được một thái độ đúng đắn trong bối cảnh đa tôn giáo
hiện nay. Trường hợp đó, người giáo dân Đa Minh có thể giúp anh chị em trong
gia đình Đa Minh sáng tạo ra một lối giảng thuyết bao gồm chứng từ hữu hình
và những lời nói rõ ràng.
Xét về sự bổ túc
này, việc dấn thân của gia đình Đa Minh vào sứ vụ loan báo Tin Mừng có thể đề
ra một số mục tiêu ưu tiên. Rõ ràng, mỗi “cộng đoàn giảng thuyết thánh” tại
địa phương là người trước tiên phải đề ra những ưu tiên ấy, dựa vào tình hình
cụ thể, văn hóa đặc thù của mỗi quốc gia và lịch sử Giáo hội địa phương.
Nhưng tôi tin rằng ngày nay cần chia sẻ những suy tư của các thành viên khác
trong gia đình Đa Minh với anh chị em giáo dân, khi mà chúng ta nhắm tới việc
canh tân rao giảng Tin Mừng trong các gia đình, trong lãnh vực giáo dục, nhắm
đến giới trẻ. Phải cần đến những kinh nghiệm của họ về kiến thức thực tế thời
nay để có thể xác định rõ hơn những điểm chính trong cuộc gặp gỡ giữa Tin
Mừng với những nền văn hóa khoa học kỹ thuật, và với những người thuộc mạng
xã hội mới. Chính khi cùng với họ, và đặc biệt lưu tâm đến kinh nghiệm của
họ, mà chúng ta có thể tiếp cận với sự tục hóa, sự tục hoá này không chỉ làm
xáo trộn lối nhìn về Giáo hội, nhưng còn mở ra một nẻo đường mới của tự do
trong việc rao giảng Tin Mừng.
Trước lời kêu gọi canh tân việc rao giảng Tin Mừng, tôi
thấy rằng Dòng Anh Em Giảng Thuyết được mời gọi cách đặc biệt để đưa việc ưu
tiên quan tâm cổ vũ ơn gọi giáo dân vào trong tính năng động của sứ vụ Dòng,
ơn gọi đem Tin Mừng vào giữa lòng thế giới. Đó là một cách thế tuyệt vời để
phục vụ Giáo hội hiện nay. Để thực hiện điều đó, tôi xin phép nhấn mạnh đặc
biệt đến một số cách thức mà chúng ta có thể phát triển. Thứ nhất, tinh thần
mà nhiều nhóm Giáo dân Đa Minh được mời gọi sống theo, phải được ghi dấu và
duy trì dấu ấn của niềm vui, sự tự do và nét đơn sơ: những tài liệu hướng dẫn
anh chị em Đa Minh được soạn từ thời Công đồng Vatican II đều đi theo hướng
đó. Thứ hai, trong số các hội đoàn giáo dân, Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh mang
một trách nhiệm lớn lao, vì qua cuộc sống người giáo dân, họ dấn thân thiết
lập một sự quân bình giữa tất cả những chiều kích trong truyền thống của
thánh Đa Minh. Thứ ba, chúng ta phải cảnh giác để các huynh đoàn, trong khi
cung cấp cho anh chị em một lối sống theo trường học của thánh Đa Minh, vẫn
hoàn toàn tránh “hơi hướm của đời sống tu trì”, tức là không biến họ thành tu
sĩ, cũng như tránh chủ nghĩa hình thức vốn có thể dẫn đến tình trạng xơ cứng.
Thứ tư, do đó, chúng ta cũng phải sẵn sàng đón nhận vào gia đình Đa Minh
những hình thức sống đời giáo dân kiểu khác, nhất là vì những kinh nghiệm
phong phú như đã nói trên đây. Thách đố của việc loan báo Tin Mừng nơi người
trẻ chắc hắn mời gọi chúng ta phải cổ võ bao nhiêu có thể những nhóm trẻ có
khả năng tham gia vào Phong Trào Giới Trẻ Đa Minh Quốc Tế, không phải như các
nhóm “mục vụ” giới trẻ, nhưng đúng hơn là những nhóm được thành lập và huấn
luyện để trở thành các nhóm truyền giáo trẻ dành cho người trẻ (lưu tâm đặc
biệt đến những người trẻ chưa đón nhận đức tin, và những người sống xa thế
giới có những truyền thống thiêng liêng). Trong suốt năm nay, tôi cho rằng
điều quan trọng là các thành viên khác trong Gia đình Đa Minh phải tận dụng
thời gian để lắng nghe, làm quen và hiểu rõ hơn về ơn gọi của người giáo dân
trong toàn bộ sứ vụ của Dòng, và từ đó tham gia cách tích cực hơn trong việc
cổ vũ ơn gọi này.
Nếu ta phát
triển tính năng động này nơi người giáo dân Đa Minh, thì điều đó sẽ giúp
chúng ta đẩy mạnh ngay trong lòng Giáo hội một suy tư mang tính thời sự về
bản chất ơn gọi của người giáo dân đối với công việc truyền giáo, ơn gọi vốn
liên hệ đến tất cả những ai đã được rửa tội. Đồng thời nó cũng giúp suy tư về
những đóng góp của “các hiệp hội giáo dân”, thuộc các truyền thống thiêng
liêng khác nhau, vào việc hình thành nên những cộng đoàn Giáo hội địa phương.
Tôi mời gọi các nhà thần học nam cũng như nữ, thuộc gia đình Đa Minh giúp
chúng tôi trong những suy tư này.
Con trai con gái
của các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ… Trong giai đoạn Cửu niên chuẩn bị cho Năm
thánh của Dòng, chúng ta dành năm nay cho chủ đề “người Giáo dân Đa Minh với
việc giảng thuyết”, điều đó có thể giúp chúng ta ý thức đầy đủ hơn về thách
đố của việc “được sai đi loan báo Tin Mừng” trong gia đình Đa Minh. Về cơ
bản, đó là một lời mời gọi mỗi người chúng ta phải gắn kết khát mong truyền
giảng Tin Mừng của chúng ta một cách sâu xa hơn nữa vào mầu nhiệm Phép Rửa,
bí tích rửa tội truyền cho chúng ta phải xây dựng Giáo hội như bí tích cứu độ
trong thế giới. Tôi mời gọi tất cả các cộng đoàn trong Dòng, và các cộng
đoàn, hội nhóm trong gia đình Đa Minh, dùng thời gian suốt năm nay để nghiền
ngẫm ý nghĩa đó. Để thực hiện điều đó, tôi mời gọi anh chị em hãy dành thời
gian Mùa Chay này để hằng tuần suy niệm Lời Chúa (lectio divina) trong cộng
đoàn, dựa theo bài đọc của năm Chúa Nhật trong năm phụng vụ này, và một lần
nữa xây dựng sự hiệp thông bằng cách cùng nhau lên đường đi theo nẻo đường mà
Giáo hội mời gọi các tân tòng, là hãy tái sinh bằng niềm vui rao giảng Tin
Mừng.
Tu sĩ Bruno Cadore, O.P.
Tổng quyền Dòng Anh Em Giảng Thuyết
(Theo WĐM)
|